nhatkhanghulk đã viết:dàn ý 3 đề văn nghị luận sau:
1) Chứng minh rằng Lý Công Uẩn là 1 vị vua anh minh, có vai trò quan trọng đối với nước nhà qua bai Chiếu Dời Đô
2) Tầm quan trọng của học và hành trong bài Bàn Luận Về Phép Học
3) Chứng minh rằng thơ Bác đầy trăng
ĐỀ 1:Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phầm Lý Công Uẩn, Hoàn cảnh sáng tác
- Nêu vấn đề nghị luận: Vai trò của lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh của đất nước
- Câu chuyển ý
2. Thân bài:
* giải thích
- giải thích nghĩa đen: Lãnh đạo là gì? Thanh minh là gì? Thế nào là vận mệnh đất nước?
- Nghĩa bóng: Mối quan hệ chặt chẽ với lãnh đạo anh minh đối với vận mệnh đất nước
* Phần bình: Khẳng định vấn đề đúng sai
- Nêu 2 vấn đề trên theo hướng tịch cực thì đất nước sẽ phồn thịnh phát triển (vấn đề tích cực đúng hướng)
- Ngược lại thiếu cách nhìn sâu sắc duy ý chí thì sẽ dẫn đến lạc hậu sai lầm gây hậu quả xấu
* Phần luận: mở rộng vấn đề - chứng minh
- Tầm nhìn xa trong rộng khi quyết định dời kinh đô: NÊU DẪN CHỨNG TRONG SGK
- Lấy dẫn chứng trong văn bản (phần 1) NÊU DẪN CHỨNG TRONG SGK
- Chọn vị trí dời kinh đô (phần 2)NÊU DẪN CHỨNG TRONG SGK
- Thực tế cho vai trò lãnh đạo đất nước khi cả nước tổ chức mừng đại lễ 1000 năm thăng long hà nội và vị thế sau này
3. Kết bài:
- Nêu suy nghĩ khái quát của người viết qua phần suy luận trên
- Đề xuất ý kiến mới (nếu có).
Bài làm THAM KHẢOLịch sử Việt Nam trong các triều đại phong kiến suy có, thịnh có, và có những trang sử vàng chói lọi của mình với đầy những chiến công lấp lánh chống giặc ngoại xâm cùng tên tuổi của những người anh hùng dân tộc vĩ đại. Tài năng kiệt xuất và đức độ cao cả của họ đã có ảnh hướng quyết định đến vận mệnh đất nước. Tiêu biểu nhất ta phải kể đến là vua Lý Công Uẩn, những nhà lãnh đạo anh minh sáng suốt bậc nhất trong lịch sử nước nhà.
Một vị vua, một vị tướng, i đều có tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ hơn người và đặc biệt là luôn quan tâm đến việc chăm lo hạnh phúc lâu bền của nhân dân, mà trong đó thể hiện rõ nhất ở tác phẩm "Chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn
"Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là sự tỏ bày ý định từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay) khi ông mới được triều đình tôn lên làm hoàng đế. Sau đó, ông đổi tên kinh đô thành Thăng Long. Đấy là năm Thuận Thiên thứ nhất – năm khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của nhà Lí – một triều đại có ý nghĩa hết sức quan trọng đưa văn hiến của nước nhà đến đỉnh cao vòi vọi.
Xưa nay đều vậy, thủ đô là trung tâm về văn hoá, chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc, do đó nó có ý nghĩa rất lớn. Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có những cuộc dời đô như thế. Mở đầu bài chiếu, ông viện dẫn sử sách Trung Quốc, nói về việc các vua đời xưa ở Trung Quốc cũng từng có các cuộc dời đô, nhờ đó mà "vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh". Ngay sau đó, ông cũng viện dẫn sử sách nước nhà, lấy dẫn chứng rằng hai triều Đinh, Lê do không chịu chuyển dời mà khiến cho "triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn". Ông thể hiện tâm trạng của mình: "rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi", đó là tấm lòng của một ông vua hết lòng lo lắng cho dân, cho nước. Bằng lí lẽ ngắn gọn, sắc sảo của mình, nhà vua đã khẳng định rằng, việc dời đô không phải là theo ý riêng của một con người, mà là "thuận theo mệnh trời, hợp với lòng dân", biểu hiện cho xu thế lịch sử. Nước Đại Việt ta lúc ấy đã là một quốc gia độc lập. Muốn bảo vệ được điều ấy thì non sông, nhân tâm con người phải thu về một mối. Tất cả thần dân phải có ý chí tự cường để xây dựng nước Đại Việt thành quốc gia thống nhất vững mạnh. Muốn vậy, việc đầu tiên là phải tìm một nơi “trung tâm của trời đất”, một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi”. Nhà vua đã rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái nơi “đúng ngôi nam bắc đông tây” lại tiện “nhìn sông dựa núi". Nơi đây không phải là miền Hoa Lư chật hẹp, núi non bao bọc lởm chởm mà là chốn Đại La “địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng”. Như vậy, đây là mảnh đất lí tưởng nhất, ở nơi đây, “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi". Quả thực Lý Công Uẩn rất quan tâm tới nhân dân. Tìm chốn lập đô cũng vì muốn nhân dân được ấm no hạnh phúc. Theo như ông, có một kinh đô như vậy, nước Đại Việt sẽ muôn đời bền vững. Sự chuyển dời ấy cũng tạo ra một bước ngoặt rất lớn đối với vận mệnh đất nước. Nó đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc Việt Nam: chúng ta không còn phải sống phòng thủ, không còn phải dựa vào thế hiểm trở như ở Hoa Lư để đối phó với quân thù. Chúng ta đã đủ lớn mạnh để lập đô ở nơi có thể đưa nước phát triển đi lên trở thành quốc gia độc lập sánh vai với phương Bắc. Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời, là nơi để cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời vậy!
Với trí tuệ anh minh, lòng nhân hậu tuyệt vời, nhà vua Lí Công Uẩn đã bày tỏ ý định dời đô một cách hết sức thuyết phục. Ông biết rằng chỉ dùng sử sách thì khó có thể thuyết phục quan thần, vậy nên trong phần sau của văn bản, ta bắt gặp một giọng nói đầy nhân từ, tấm lòng lo cho dân cho nước rất mực. Ông không bắt các quan và nhân dân phải dời đô theo ý mình mà thậm chí còn hỏi han, nghe ngóng tình hình, quan tâm, tiếp thu cả ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Có thể nói rằng Lí Công Uẩn là một vị vua hết sức anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng, đặt hạnh phúc lâu bền của nhân dân làm mục đích cho hành động, việc làm của mình nhằm xây dựng được triều đại hưng thịnh, có vai trò quan trọng trong lịch sử.
vị lãnh đạo Lí Công Uẩn dù một vị vua, một vị tướng nhưng LẠI là những nhà lãnh đạo hết sức tài ba, anh minh, họ có thể nắm giữ, thay đổi vận mệnh của cả một đất nước theo triều hướng hết sức tích cực, vì vậy mà họ cũng là những nhân vật được tôn trọng nhất, gắn liền với vận mệnh đất nước Đại Việt.